Làng Nghề Truyền Thống Ở Tỉnh Tiền Giang
Buôn có hội – Bán có phường, vậy nên từ xa xưa, Hà thành được biết đến là nơi có nhiều làng nghề cổ vô cùng phát triển. Ngày nay trước sự hội nhập và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã có nhiều làng nghề biến mất và không còn phát triển như trước nữa. Tuy nhiên, có những ngôi làng nghề truyền thống vẫn khẳng định sức sống trường tồn theo thời gian và trở thành điểm đến yêu thích của nhiều bạn trẻ Việt.
Làng nghề truyền thống dệt vải Khuôn Thê
Trong số các nghề truyền thống, nghề dệt vải được nhiều dân tộc thiểu số ở các vùng miền lưu giữ nhất, trong đó phải kể đến nghề dệt truyền thống của dân tộc Nùng ở thôn Khuôn Thê, xã Phúc Ứng, Sơn Dương.
Điểm đặc biệt ở làng truyền thống này là các bộ khung dệt vải đã có từ rất lâu, cây thoi và bộ khung cửi làm từ gỗ rừng, tre hay nứa đều nhẵn bóng theo thời gian.
Làng nghề truyền thống Khuôn Thê sử dụng nguyên liệu dệt vải do người dân tự trồng lấy. Cây bông được trồng trên các triền núi thấp, thu hoạch và quay vòng se thành sợi. Việc tự trồng bông, dệt vải cho gia đình từ lâu đã trở thành thói quen của người dân nơi đây, các bé gái trong vùng khi lớn lên đã được dạy cho dệt vải. Các bà, các mẹ đều biết dệt và dệt rất khéo vì từ nhỏ đã quen thuộc với bộ áo chàm và khung dệt.
Các nghề thủ công nói chung đều yêu cầu sự tỉ mỉ và kiên trì, công đoạn se sợi và lên khung là kì công nhất, cán bông và se sợi đòi hỏi sự tỉ mỉ, chú tâm mới tạo ra những sợi chỉ đều và đẹp. Công đoạn dệt nên một tấm vải cũng mất vài ngày.
Ngành nghề truyền thống dệt vải ở Khuôn Thê có cách nhuộm màu vải rất đặc biệt. Người dân thu hái cây chàm về ngâm trong chum nước hàng tháng trời cho đến khi lá nhàu nát, chắt lọc lấy nước trộn với ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát và khuấy đều để tạo hỗn hợp nước màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Ngâm vải trong chàm, mỗi ngày vớt ra phơi và ngâm lại hai lần, liên tục trong khoảng một tháng cho bền màu.
Khi đã có tấm vải người Nùng thêu thêm hoa văn trang trí rồi mới may thành quần áo, chăn, túi xách, khăn đội đầu,… Các hoạ tiết trang trí trong nghề thủ công truyền thống ở Khuôn Thê thường rất đơn giản, chủ yếu là các hình tròn, bố cục cân xứng, mô phỏng mặt trời ngôi sao màu sắc rực rỡ.
Nghề truyền thống ở Việt Nam không nhiều, đặc biệt nghề dệt ở Khuôn Thê đang dần mai một vì các sản phẩm công nghiệp đa dạng và giá rẻ hơn, nhưng cùng với tiếng nói, điệu hát, trang phục và các nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Nùng đã và đang được khôi phục.
Những tấm vải dệt tay từ làng Khuôn Thê là sự kết nối giữa các thế hệ với nhau và là sợi chỉ giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, xứng đáng là một trong những làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam.
Làng nghề làm nón Tây Hồ - Phú Vang (TT Huế)
Tây Hồ – Làng nghề làm nón tọa lạc bên dòng sông Như Ý, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 12 km. Nghề làm nón truyền thống ở đây đã tồn tại hàng trăm năm, và những chiếc nón bài thơ đã xuất hiện từ cuối thập kỷ 50 đến đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Nón lá Tây Hồ nổi tiếng với độ mỏng, thanh, màu sắc nền nã và đường kim, mũi chỉ đều, đẹp, được yêu chuộng như một vật trang sức làm đẹp và vật che nắng hiệu quả cho người dân. Người dân mang theo chiếc nón lá đội đầu khi đi chợ, làm ruộng, tạo nên hình ảnh bền bỉ giữa nắng và gió của người nông dân Tây Hồ. Khám phá làng nghề Tây Hồ, du khách sẽ được thưởng thức vẻ đẹp độc đáo của nón bài thơ và theo dõi quy trình sản xuất khéo léo và tinh tế qua 15 công đoạn.
Làng nghề làm muối Tuyết Diêm
Tuyết Diêm dịch nôm là những hạt muối trắng tinh. Ở Phú Yên, có 3 làng nghề sản xuất muối truyền thống hơn 300 năm, bao gồm Trung Trinh, Lệ Uyên, và Tuyết Diêm.
Muối Tuyết Diêm, hay còn gọi là muối Cù Mông, đã trở thành biểu tượng của làng nghề từ năm 1870. Đến nay, làng nghề làm muối Tuyết Diêm ở xã Xuân Bình, Sông Cầu, Phú Yên đã trải qua 138 năm. Dù cuộc sống làm muối khó khăn và vất vả, nhưng đây là cái nôi gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân nơi đây.
Làng nghề làm muối là một đặc điểm độc đáo, quyến rũ trong văn hóa làng nghề Việt Nam. Đây không chỉ là điểm đến du lịch miền biển, mà còn là trải nghiệm sâu sắc, tìm hiểu về lịch sử và nét đẹp riêng của làng nghề xứ biển.
Làng nghề thúng chai có lịch sử lâu dài, từ thời kỳ xa xưa, và đã trở thành nguồn sống quan trọng của dân làng.
Mặc dù trước đây làng nghề thúng chai có thể xác định là khó khăn, nhưng hiện nay đã trải qua quá trình phát triển mạnh mẽ, thậm chí mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều làng nghề truyền thống không chỉ duy trì mà còn phát triển vững mạnh. Gần đây, thúng chai Phú Yên đã gặt hái thành công khi xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Thái Lan, Thụy Sỹ và các quốc gia khác.
Thúng chai Phú Yên đặc biệt bởi việc sử dụng nguyên liệu địa phương. Theo người dân làng nghề, cây tre trồng tại đất Phú Yên có đặc điểm chịu nước tốt, dẻo dai và có nguồn dầu rái rất chất lượng khi trét thúng, tạo nên sự bền vững của sản phẩm. Điều này không chỉ nhờ vào sự quan tâm của chính quyền mà còn do nỗ lực của cộng đồng dân cư, làng nghề ngày nay đã phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Làng Chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình)
Truyền thống nghề chạm bạc Đồng Xâm rộng lớn từ thế kỷ 15. Dân chúng kể lại câu chuyện của một người đàn ông từ Châu Bảo Lạc đến truyền nghệ cho làng. Vào năm 1428, cụ Nguyễn Kim Lâu chính là nhà sáng lập làng, tạo ra cơ sở hạ tầng cho 7 chi phường và 149 thợ. Thời kỳ hoàng kim nhất, nghệ nhân Đồng Xâm vươn ra khắp đất nước, làm nghệ thuật trang trí cho Huế và thậm chí là lập nên phố Hàng Bạc ở Hà Nội.
Ngày nay, Đồng Xâm nổi tiếng với ba dòng sản phẩm chính: trang sức bạc, mỹ nghệ và đồ thờ cúng. Trang sức bạc đa dạng từ dây chuyền, nhẫn, hoa tai đến vòng cổ, lắc, vòng tay, được làm từ bạc. Sản phẩm đồ thờ cúng như đỉnh, vạc, lư hương, đĩa quả, chân đèn, ngai… cũng là điểm mạnh được ưa chuộng. Đặc biệt, sản phẩm bạc Đồng Xâm thu hút khách hàng bởi hình khối, thiết kế tinh tế và sự sáng tạo trong xử lý ánh sáng - bóng của chất liệu bạc. Điểm đặc trưng của sản phẩm chính là sự tinh tế và hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng khó tính.
Làng nghề làm giấy dó Phong Khê - Bắc Ninh
Làng nghề truyền thống làm giấy dó ở phường Phong Khê, tỉnh Bắc Ninh đã có tuổi đời 800 năm.
Nghề thủ công truyền thống này sản xuất giấy dó từ vỏ những cây dó (cây dó giấy, cây dó liệt, cây dướng). Các loại giấy dó được làm ra ở làng nghề thủ công Phong Khê thường là : giấy phương, giấy trúc, giấy khay, giấy để tạo giấy sắc, giấy vua phê, giấy hành ri, giấy dó bìa, giấy sắc, giấy moi, giấy xề,…
Những tờ giấy dó được các làng truyền thống Việt Nam dùng để vẽ tranh, làm giấy điệp cho tranh dân gian Đông Hồ, ngoài ra giấy dó cũng được làng nghề truyền thống dùng để ghi chép lịch sử, lưu giữ các tài liệu, làm quạt, bao bì, giấy chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, màng loa máy thu thanh.
Các công đoạn của nghề truyền thống làm giấy dó:
Thu hoạch vỏ cây dó từ rừng, thường thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm vì khi đó thời tiết nắng nóng khiến vỏ cây dễ bị bong hơn.
Cắt thành từng khúc dài chừng 2m, nấu và ngâm vỏ cây dó trong nước vôi trong vòng 3 tháng, bóc bỏ lần vỏ đen, giã bằng cối hoặc chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính, pha thêm nước để làm dung dịch làm giấy, lỏng hay đặc tùy vào đồ dày giấy.
Dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) để seo giấy bằng cách chao đi chao lại trong bể bột.
Ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng lớp bột trên liềm để thu được tờ giấy dó.
Xơ dó kết hợp lại với nhau như mạng nhện nhiều lớp, làm cho tờ giấy rất xốp và nhẹ, có trọng lượng riêng băng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, giấy dó rất bền, dai, không nhòe khi viết, vẽ, ít bị mối mọt, giòn gãy hay ẩm nát. Chính những điều trên tạo nên nét độc đáo sản phẩm của các làng nghề cổ truyền.
Từ làng nghề làm giấy ở Bắc Ninh, giấy dó Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và rất được khách hàng ưa chuộng, một trong những niềm tự hào của các nghề thủ công ở Việt Nam.